Mật Điển Bí Mật Tập Hội – Guhyagarbha Tantra – Tập 1
Bí Mật Tập Hội – Vua Tất Cả Mật Điển – Guhyagarbha Tantra là mật điển xuất phát từ tâm tối hậu của Đức Pháp Thân Phật Nguyển Thủy Phổ Hiền, bản chất tối thượng của thực tại, cội nguồn của tất cả giáo lý Mật thừa.Tuy nhiên để có thể truyền dạy giáo pháp này, đức Phổ Hiền đã thị hiện dưới hình tướng Báo Thân Phật Kim Cương Trì (là hiện thân thuyết Pháp của Pháp Thân) thuyết giảng cho các Bồ Tát và các bậc trì minh Vương tại cõi Sắc Cứu Cánh – Akanistha.
260.000 ₫
Bí Mật Tập Hội – Mật Điển Gốc – Bí Tạng Tâm Yếu, Chân Tánh Tối Hậu Như Như – Guhyagarbha Tantra
Giới thiệu:
Vua của tất cả Mật Điển: Bí Mật Tập Hội – Guhyagarbha Tantra
Guhyagarbha Tantra là mật điển xuất phát từ tâm tối hậu của Đức Pháp Thân Phật Nguyển Thủy Phổ Hiền, bản chất tối thượng của thực tại, cội nguồn của tất cả giáo lý Mật thừa.
Tuy nhiên để có thể truyền dạy giáo pháp này, đức Phổ Hiền đã thị hiện dưới hình tướng Báo Thân Phật Kim Cương Trì (là hiện thân thuyết Pháp của Pháp Thân) thuyết giảng cho các Bồ Tát và các bậc trì minh Vương tại cõi Sắc Cứu Cánh – Akanistha. Trong đó đức Kim Cương Thủ đóng vai trò là vị được phó chúc, nắm giữ và truyền bá.
Guhyagarbha Tantra được giáng trần một cách kì diệu từ không trung xuống nóc cung điện của Vua Indrabhuti xứ Sahor, sự kiện này đánh dấu dòng truyền thừa qua biểu tượng của các bậc Trì Minh Vương và dòng truyền thừa khẩu truyền. Ban đầu Vua Indrabhuti không thể hiểu được ngôn ngữ biểu tưởng nên đã trao nó cho đại thành tựu giả Kukuraja. Đức Kim Cương Thủ đã xuất hiện và ba quán đỉnh trọn vẹn cho kukuraja, giúp ngài thấu triệt toàn bộ ý nghĩa của Guhyagarbha Tantra. Từ đó truyền thừa được trao qua các đại sư khác như Garab Dorje, Mañjuśrīmitra, Śrī Siṃha, và Jñānasūtra, rồi đến hai đạo sư Tây Tạng: Đại sư Liên Hoa Sinh và đại sư Vimalamitra ( Vô Cấu Hữu),…Các ngài đã có những bản luận giải quan trọng về Mật Điển này, và các đại sư lỗi lạc sau đó cũng có nhiều luận giải quan trọng như Longchenpa, Tsongkhapa,…
Nội dung của Guhyagarbha Tantra trình bày nền tảng, con đường và kết quả cho việc nhận ra bản chất của thực tại. Mô tả bản chất của thực tại là sự thanh tịnh nguyên thủy và sự hiện hữu tự nhiên của mandala an bình và phẫn nộ vốn như nó là. Trình bày các phương pháp thực hành để hiện thực hóa nền tảng như quán đảnh, bổn tôn du già, trì giữ samaya, cúng dường,.. và mô tả thành quả của việc thực hành con đường- sự chứng đắc Phật quả.
Bởi vậy Guhyagarbha Tantra được coi là vua của tất cả các mật điển, giữ một vị thế tối cao, là nền tảng, nguồn cội để tìm hiểu các chủ đề cốt lõi của Kim Cương Thừa.
Đức Toàn Tri Jamgön Mipham khẳng định: “Dẫu chưa hiểu nghĩa, chỉ cần tai được nghe hoặc mắt được thấy tạng bản này cũng đã phước báu thù thắng vô cùng – đó là dấu hiệu tích lũy công đức và nghiệp lực hy hữu đời trước.” Vì vậy, kẻ hữu duyên với Kim Cang Thừa hãy tinh tấn thính thọ và hoằng truyền, dẫu thân mạng có gian lao.
Trích nội dung sách:
Ví như đoá sen thanh tú không hề nhiễm bùn nước, Đức Phật Thích‑ca Mâu‑ni — Pháp vương vô thượng — đã thị hiện Ứng‑thân thanh tịnh chốn thế gian, tùy thuận căn cơ chư hữu tình mà thuyết giảng diệu pháp. Bậc Toàn Tri đã liễu đạt chân tướng vạn pháp, chúng con khẩn nguyện hồng ân pháp bảo bất tận do Ngài ban bố sẽ tiếp tục xoa dịu khổ đau của chúng sinh trong thời mạt thế bằng ánh sáng dẫn đường đến giải thoát hoàn toàn.
Nhờ sự hiện hữu của chánh pháp, ba dòng lưu đại hải của chư truyền thừa xuất hiện nơi đời: (1) Tâm‑truyền của chư Thắng Giả, (2) Tượng‑truyền của chư Trì Minh, và (3) Khẩu‑truyền của các bậc Thượng Thủ.* Như vậy, đạo lộ Mật thừa được hiển lộ từ tự tâm giác ngộ của Phổ Hiền Nguyên Phật, Kim Cang Trì, Kim Cang Tát Đỏa, Cát Tường Kim Cang, Liên Hoa Sinh v.v. Bởi đạo lộ này có năng lực “văn nhi giải thoát”, huống hồ công hạnh tu trì càng thù thắng biết bao!
Nhờ lòng bi vô song của Quốc vương Trisong Detsen, Đại Luận sư Thánh‑trí (Khen‑po Śāntarakṣita) và Kim Cang Thượng Sư Liên Hoa Sinh — cùng những dịch giả, học giả lỗi lạc liên kết tựa chuỗi vàng — giáo pháp vô thượng của Đức Thích‑tôn được truyền vào Xứ Tuyết, cõi hóa độ của Quán Thế Âm. Từ đó, truyền thống “Bảo giáo Đại bí mật” — tức hệ Cổ Dịch Nying‑ma — được kiến lập viên mãn tại Tây Tạng. Về sau, Bậc Toàn Tri Rong‑zom Paṇḍita đã dùng pháp loa hùng biện tán dương sáu thắng tướng, ca ngợi rằng truyền thống Nying‑ma, ví như dòng suối thượng nguồn dãy đại sơn, đứng đầu trong tám cỗ xe giáo pháp.
Nói chung, do ân đức của Đạo sư Śāntarakṣita, truyền thống giới luật và lộ trình Tam Học cùng dòng dạy và học Tam Tạng được hưng khởi tại Tây Tạng. Riêng về Mật thừa, nhờ công hạnh của Liên Hoa Sinh, Vô Cấu Hữu (Vimalamitra) và nhiều Đại Bồ‑tát, Đại Trì Minh trú tại thập địa, hai dòng truyền xa (Ka‑ma) và gần (Ter‑ma) được lưu truyền nhằm dẫn dắt độ thoát hàng đệ tử căn cơ thắng diệu. Trong dòng Ka‑ma xa, lại phân thành ba nhánh tương ứng Nội Tam Mật: Đại Du‑già (Ma‑hā‑Yoga) – Luân Nghiêm Nghi Hoá Tạng; A‑nậu Du‑già (A‑nu‑Yoga) – Tập Hội Như‑ý Ý Lạc; A‑tỳ Du‑già (A‑ti‑Yoga) – Đại Viên Mãn. Bộ Luân Nghiêm Nghi Hoá Tạng gồm hai lớp: Kinh‑bộ và Tu‑bộ của giai đoạn sanh. Lớp Kinh‑bộ mà chúng ta luận bàn chứa mười tám mật kinh Đại Du‑già, trong đó căn bản kinh chính là “Hoá Tạng Bí Tạng Quang Minh – Vinh Quang Tối Thượng Thực Tướng Như Như”. Tám bộ phái trong Hoá Tạng đã được Khen‑rin‑poche Nam‑dröl khai thị trong lời dẫn nhập bản dịch này. Phần Tu‑bộ sẽ trình bày vào dịp khác.
Lược sử kinh này từ Ấn‑độ truyền vào Tuyết Quốc như sau. Theo Đại Sư Cữu Trùng Yeshe Dorje (Dudjom Rinpoche) cùng nhiều bậc trí chứng Nying‑ma, “Mật Nghi Hoá Tạng” ban đầu do Ma Rinchen Chok dịch dưới sự chỉ dạy của Vimalamitra. Ngài Ma Rinchen Chok truyền kinh cho Tsug‑ru Rinchen Zhon‑nu, Kyere Chog‑Kyong v.v. Hai vị này lại truyền cho Zhang Gyalwa’i Yonten và Darje Palgyi Drakpa. Dòng Zhang lưu truyền khắp miền Trung Tạng rồi sang Khâm, được xưng là “Mật giáo Nghĩa Quyết” (Upadeśa). Dòng Darje lan tỏa Trung‑Bắc Tạng. Ngoài ra, Liên Hoa Sinh và Vimalamitra truyền kinh cho Nyak Jñāna‑Kuśala; chính Liên Hoa Sinh trước tác luận “Tràng Hoa Nghĩa Quyết Quán” chú giải kinh này. Nyak truyền tiếp cho Palgyi Yeshe xứ Mông, người trao lại cho Nub Sangye Yeshe… Vị Nub ấy vang danh “Hộ trì đại lưu dòng truyền”. Như Bậc Văn Thù Học Chủ Ju Mipham nói: “Hai cỗ xe vĩ đại giảng kinh này là: truyền thống rộng, thường của chư Zurchen, cùng truyền thống thâm mật, phi thường của chư Pháp Vương Xứ Tuyết – Longchenpa và Rongzompa.”
Truyền thống Zur‑pa (miền Trung Tạng) do các bậc như Zurchen Shakya Jung‑ne, Zurchung Sherab Drakpa, Đropa Shakya Sengé, Lochen Dharma Śrī v.v. xiển dương, luận giải kinh dưới nhãn quan giai đoạn sanh Đại Du‑già.
Truyền Longchen‑Rongzom (miền Đông Tạng) được Longchen Rabjam (1308‑63) hoằng dương, giảng kinh theo nhãn quan Đại Viên Mãn, nhấn mạnh “Đại (Mahā) của A‑ti và A‑ti của Đại”. Bộ “Quét Sạch Bóng Tối Khắp Mười Phương” chú thích từng chữ thuộc truyền thống này. Như chính ngài xưng tụng: “Đây là vua của chư mật kinh, chóp đỉnh của mọi thừa, nguồn của mọi truyền thụ, con đường tốc chứng tam thế chư Phật; trong các bí mật, đây là tối tôn.”
Tác giả luận giải là bậc học giả, hành giả kiệt xuất, trí nhãn khai mở viên mãn nơi thực tánh. Nhấn mạnh trí tuệ bản nhiên, ngài giải thích từng chữ kinh theo ý chỉ sở tri, dẫn trích khế kinh, mật điển, luận thư để tăng trưởng lòng tin của hàng đệ tử. Bằng lý luận sắc bén, ngài chứng minh con đường này vô thượng, vạch bày địa, đạo, quả của Mật thừa quyết định nghĩa. Với hành giả chí cầu giải thoát, bản chú này như con mắt đối với người mù: nếu biết trân quý như tâm can, quyết chẳng lầm lạc hay thất vọng.
Hai mươi hai phẩm kinh phơi bày yếu chỉ thâm mật Vajrayāna, hiển lộ pháp tính nguyên sơ tự giác, thanh tịnh bình đẳng bất nhị. Tuy trọng tuệ vượt ngoài tâm phân biệt, kinh khẳng định tuệ ấy chẳng khác tâm; khác với nhân thừa cho rằng “tâm là nhân thành Phật”, nơi đây khẳng định bản tâm vốn là Pháp‑thân Phật thanh tịnh thuỷ chung.
Thông tin về cuốn sách:
Tên sách | Bí Mật Tập Hội |
Tác giả | Mật Điển – Chuyển ngữ: Padma Lotsawa |
Giá | 260.000đ |
Số trang | 220 |
Nhà xuất bản | Padma Publishing |
Khổ | 14,5 x 20 cm |
Barcode | ISBN 9781558394000 |
Thông tin
Cân nặng | 0,2 kg |
---|---|
Kích thước | 20 × 14,5 × 3 cm |